Chảy máu sau đẻ là gì? Các công bố khoa học về Chảy máu sau đẻ

Chảy máu sau đẻ (postpartum hemorrhage) là hiện tượng chảy máu mạnh từ tử cung sau khi phụ nữ sinh con. Đây là một biến chứng nguy hiểm và cần được xử lý ngay l...

Chảy máu sau đẻ (postpartum hemorrhage) là hiện tượng chảy máu mạnh từ tử cung sau khi phụ nữ sinh con. Đây là một biến chứng nguy hiểm và cần được xử lý ngay lập tức. Có hai loại chảy máu sau đẻ: chảy máu sau đẻ sớm (xảy ra trong 24 giờ sau khi sinh) và chảy máu sau đẻ muộn (xảy ra sau 24 giờ và trong vòng 12 tuần sau khi sinh). Nguyên nhân của chảy máu sau đẻ có thể do các vấn đề về tử cung như tử cung không co bóp đủ sau khi sinh, vết rách tử cung hoặc tử cung mềm yếu. Faktor khác là các vấn đề về mạch máu và dịch trong cơ thể như thiếu máu, việc cắt tiệt dây rốn quá sớm hoặc quá muộn. Đối với chảy máu sau đẻ, cần phải cung cấp chăm sóc y tế ngay lập tức để kiểm soát và ngăn chặn tình trạng chảy máu.
Chảy máu sau đẻ là mất quá nhiều máu (hơn 500ml) từ tử cung trong quá trình hậu quả của việc sinh con. Đây là một trong những biến chứng phức tạp và nguy hiểm nhất sau sinh, có thể đe dọa tính mạng của mẹ và bé.

Có hai loại chảy máu sau đẻ: chảy máu sau đẻ sớm và chảy máu sau đẻ muộn.

1. Chảy máu sau đẻ sớm: Xảy ra trong 24 giờ sau khi sinh. Nguyên nhân chính bao gồm:

- Tử cung không co bóp đủ: Đối với nhiều phụ nữ, tử cung không co bóp đủ để ngăn chảy máu sau khi sinh. Điều này có thể xảy ra do quá trình sinh con mệt mỏi, sử dụng một số loại chất gây tê hoặc chấp thuận, hoặc vì lý do tự nhiên khi tử cung không hoạt động đúng cách.

- Rách tử cung: Rách tử cung có thể xảy ra trong quá trình sinh con, đặc biệt là trong các trường hợp mẹ và bé có kích thước lớn hoặc trong trường hợp sử dụng các phương pháp khác thường khi sinh con như trực cổ tử cung, sinh hai lần.

- Tử cung mềm yếu: Tử cung mềm yếu không co bóp đủ để kiềm chế chảy máu.

- Vấn đề về mạch máu và dịch trong cơ thể: Các vấn đề như thiếu máu, hiệu ứng phụ của một số loại thuốc, hoặc việc cắt tiệt dây rốn quá sớm hoặc quá muộn cũng có thể làm tăng nguy cơ chảy máu sau đẻ.

2. Chảy máu sau đẻ muộn: Xảy ra sau 24 giờ và trong vòng 12 tuần sau khi sinh. Nguyên nhân chính bao gồm:

- Tồn lượng khối u tử cung: Các khối u tử cung có thể gây ra chảy máu sau đẻ trong thời gian muộn. Điều này thường xảy ra khi khối u tạo ra áp suất không gian trong tử cung, gây giảm khả năng tử cung co bóp.

- Tóc tiền đảo ngược: Tóc tiền đảo ngược là một loại vấn đề sau sinh khi đoạn dây rốn không được cắt và buộc mà bị xoắn hoặc quấn quanh cổ tử cung, gây ra chảy máu sau đẻ muộn.

Để kiểm soát và xử lý chảy máu sau đẻ, đòi hỏi sự can thiệp y tế ngay lập tức. Điều trị thường bao gồm thiết bị nặn tử cung, sử dụng thuốc co bóp tử cung, hút máu và đưa máu thay thế. Nếu tình trạng không được kiểm soát, có thể cần phẫu thuật hoặc truyền máu.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "chảy máu sau đẻ":

Sự Can Thiệp của Canxi Hóa Động Mạch Cảnh với Các Vết Chảy Máu Vi Mạch Sâu trong Não Dịch bởi AI
European Neurology - Tập 72 Số 1-2 - Trang 60-63 - 2014

<b><i>Đặt vấn đề/Mục tiêu:</i></b> Mục tiêu của nghiên cứu hiện tại là xác định mối liên hệ giữa sự canxi hóa động mạch và các vết chảy máu vi mạch (CMB) liên quan đến phân bố của chúng. <b><i>Phương pháp:</i></b> Chúng tôi đã xác định 834 bệnh nhân liên tiếp bị đột quỵ thiếu máu cục bộ cấp tính hoặc cơn thiếu máu thoáng qua đã được thực hiện chụp mạch CT và hình ảnh trọng số độ nhạy. <b><i>Kết quả:</i></b> Canxi hóa động mạch cảnh trong (ICA) và CMB được phát hiện ở 660 bệnh nhân (79.1%) và 335 bệnh nhân (40.2%), tương ứng. Canxi hóa ICA có mối liên hệ độc lập với CMB ở bất kỳ vị trí nào (tỷ lệ odds, OR, 2.86, 95% CI 2.01-4.08, p < 0.0001). Mối liên hệ giữa canxi hóa và CMB sâu mạnh hơn (OR 3.51, 95% CI 2.39-5.14, p < 0.0001). Tuy nhiên, canxi hóa ICA không có liên quan đến CMB trong khu vực strict lobar. <b><i>Kết luận:</i></b> Canxi hóa ICA là yếu tố nguy cơ độc lập cho CMB sâu nhưng không phải cho CMB strict lobar. Các phát hiện của chúng tôi có thể góp phần làm sáng tỏ nguyên nhân bệnh sinh của bệnh mạch nhỏ trong não.

MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN CHẢY MÁU 24 GIỜ SAU ĐẺ ĐƯỜNG ÂM ĐẠO TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN HÀ NỘI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 509 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Xác định một số yếu tố liên quan đến chảy máu 24 giờ sau đẻ đường âm đạo tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội 2019 – 2020. Đối tượng nghiên cứu: Tất cả các sản phụ được chẩn đoán CMSĐ 24h đường âm đạo được chẩn đoán, điều trị tại BVPSHN từ ngày 1/1/2019-31/12/2020 đáp ứng tiêu chuẩn lựa chọn. Kết quả: Tỷ lệ chảy máu sau đẻ 24 giờ đường âm đạo tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội năm 2019 là 0,3 %, giảm xuống 0,26% trong năm 2020, tỷ lệ chung trong 2 năm là 0,28%. Tỷ lệ sản phụ sinh con rạ có chảy máu sau đẻ cao hơn gấp 2 lần sản phụ sinh con so. Số sản phụ có thai nhi từ 3500gr trở xuống chiếm tỷ lệ CMSĐ cao hơn số sản phụ có thai nhi trên 3500 gram. Thời điểm chảy máu sau đẻ hay gặp nhất 0-2h chiếm khoảng 95%. Kết luận: Tuổi thai, số lần sinh con và thời điểm chảy máu sau đẻ đều là những yếu tố liên quan đến tình trạng chảy máu sau đẻ ở sản phụ.
#chảy máu sau đẻ #tuổi thai #số lần sinh con
Tình hình phẫu thuật cắt tử cung cấp cứu sau sinh đường âm đạo tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương trong 5 năm (2017 - 2021)
Tạp chí Phụ Sản - Tập 20 Số 3 - Trang 70-73 - 2022
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ phẫu thuật cắt tử cung cấp cứu sau sinh đường âm đạo và tìm hiểu các yếu tố nguy cơ dẫn đến phẫu thuật cấp cứu. Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu: Phân tích hồi cứu qua hồ sơ bệnh án tất cả những trường hợp phẫu thuật cắt tử cung cấp cứu sau sinh đường âm đạo tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương từ năm 2017 đến hết năm 2021. Kết quả: Có 6/49.445 ca đẻ đường âm đạo phải phẫu thuật cắt tử cung cấp cứu sau sinh tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương trong 5 năm. Tỷ lệ chung của phẫu thuật cấp cứu sau đẻ đường âm đạo là 0,12 cho mỗi 1000 ca đẻ tính từ năm 2017 đến năm 2021. Trong số ca cắt tử cung cấp cứu sau đẻ có năm ca là đẻ thường, một ca sau đẻ thủ thuật Forceps. Chỉ định cắt tử cung cấp cứu đứng đầu là do đờ tử cung với 3 ca (50%), tiếp đến là bất thường rau thai có 2 ca (33,3%), tổn thương đoạn dưới tử cung là 1 ca (16,7%). Trong 6 ca mổ cắt tử cung thì có 5 ca sinh con từ lần thứ 3 trở lên chiếm tỷ lệ cao nhất 83,3%, 1 ca sinh con lần hai (16,7%), không có ca nào sinh con lần đầu. Kết luận: Với những trường hợp sinh con từ lần thứ 3 trở lên hoặc trong quá trình khám thai và siêu âm nghi ngờ rau thai bám bất thường (phù thai rau, nghi ngờ rau cài răng lược một phần, hoặc mổ đẻ cũ) thường có nguy cơ chảy máu nặng do đờ tử cung sau đẻ hoặc rau không bong dẫn đến phải cắt tử cung cấp cứu sau sinh. Vì vậy, với những trường hợp này nên khuyên sản phụ đến đẻ tại những cơ sở sản khoa có bác sĩ sản khoa có kinh nghiệm và có khả năng phẫu thuật tốt để cuộc chuyển dạ đẻ đạt kết quả tối ưu nhất, tránh được những tai biến nặng cho sản phụ trong và sau đẻ.
#cắt tử cung cấp cứu sau sinh #sinh đường âm đạo #chảy máu sau đẻ
KẾT QUẢ XỬ TRÍ CÁC TRƯỜNG HỢP CHẢY MÁU 24 GIỜ SAU ĐẺ ĐƯỜNG ÂM ĐẠO TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN HÀ NỘI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 511 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá kết quả xử trí các trường hợp chảy máu 24 giờ sau đẻ đường âm đạo tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội 2019 – 2020. Đối tượng nghiên cứu: Tất cả các sản phụ được chẩn đoán CMSĐ 24h đường âm đạo được chẩn đoán, điều trị tại BVPSHN từ ngày 1/1/2019-31/12/2020 đáp ứng tiêu chuẩn lựa chọn. Kết quả: Trong 98 sản phụ CMSĐ có 71 sản phụ cầm máu thành công ở lần xử lý đầu tiên, không có sản phụ nào tử vong. Với việc áp dụng nhiều phương pháp dự phòng, xử trí tích cực vì vậy xử trí thành công ở lần xử lý đầu tiên đạt tỷ lệ cao. Có 5 trường hợp đờ tử cung tiến hành KSTC và dùng các thuốc tăng co không kết quả chuyển phẫu thuật cắt TC chiếm 5.1%. Khâu vết rách âm đạo - tầng sinh môn - cổ tử cung, lấy khối máu tụ tầng sinh môn là 2 phương pháp chính trong xử trí chảy máu sau đẻ do chấn thương đường sinh dục.Tỷ lệ truyền máu trong điều trị chảy máu sau đẻ chung là 80,6%, chủ yếu là hồng cầu khối. Kết luận: Điều trị nội là phương pháp được lựa chọn và ưu tiên hàng đầu trong điều trị đờ tử cung sau đẻ, nếu không có hiệu quả thì phải chuyển qua phương pháp thắt động mạch tử cung hoặc cắt tử cung.
#chảy máu sau đẻ #đờ tử cung #cắt tử cung #điều trị
Đánh giá kết quả điều trị chảy máu sau đẻ bằng phương pháp can thiệp nội mạch
Tạp chí Phụ Sản - Tập 20 Số 3 - Trang 136-140 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá tính hiệu quả của phương pháp can thiệp nội mạch trong điều trị chảy máu sau đẻ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Kết quả được phân tích ở 30 bệnh nhân chảy máu sau đẻ được điều trị bằng phương pháp can thiệp nội mạch từ tháng 1 năm 2019 đến tháng 11 năm 2021. Thành công lâm sàng được định nghĩa là ngừng chảy máu sau lần can thiệp đầu tiên mà không cần can thiệp hay phẫu thuật lại. Kết quả: Trong số 30 bệnh nhân có 19 bệnh nhân mổ lấy thai (63,3%), 11 bệnh nhân đẻ thường (37,7%), số lượng khối hồng cầu truyền trung bình là 3,88 đơn vị. Tỷ lệ thành công về mặt kỹ thuật là 100%, tỷ lệ thành công trên lâm sàng 83,3% (25 trên 30). Có 5 trường hợp thất bại, 1 trường hợp can thiệp nội mạch lại (3,3%), 2 trường hợp phải phẫu thuật lại (6,7%), 2 trường hợp tử vong (6,7%). Kiểm soát được chảy máu sau can thiệp là 93,3% (28 trên 30). Thời gian hết ra máu âm đạo trung bình là 4,4 ngày, thời gian nằm viện trung bình là 8,1 ngày. Kết luận: Can thiệp nội mạch cho thấy an toàn và hiệu quả cao trong điều trị chảy máu sau đẻ. Do đó, đây là một biện pháp hỗ trợ hoặc thay thế cho cắt tử cung cầm máu trong điều trị chảy máu sau đẻ.
#chảy máu sau đẻ #nút mạch điều trị chảy máu sau đẻ
Sự siêu đặc trên CT không đối quang ngay sau tái thông mạch qua động mạch Dịch bởi AI
Deutsche Zeitschrift für Nervenheilkunde - Tập 259 - Trang 936-943 - 2011
Chụp cắt lớp vi tính không đối quang (NCCT) thường được thực hiện để đánh giá các biến chứng chảy máu ngay sau các thủ thuật. Tuy nhiên, các khu vực siêu đặc trên NCCT vẫn chưa được hiểu rõ; nhiều diễn giải khác nhau đã được báo cáo trong tài liệu. Vẫn chưa rõ liệu NCCT được thực hiện ngay sau khi tái thông mạch qua động mạch (IAR) có hữu ích để dự đoán biến đổi chảy máu (HT) hay kết quả lâm sàng hay không. Do đó, chúng tôi đã điều tra giá trị chẩn đoán của các khu vực siêu đặc trên hình ảnh NCCT thu được ngay sau IAR. Đây là một nghiên cứu hồi cứu đối với bệnh nhân đột qu stroke cục bộ cấp tính đã trải qua IAR từ tháng 10 năm 2007 đến tháng 12 năm 2010. Các quét NCCT được thực hiện ngay sau IAR và các giao thức hình ảnh theo dõi bổ sung bao gồm hình ảnh khuếch tán (DWI)/hình ảnh cộng hưởng gradient (GRE) 24 giờ sau IAR. HT được đánh giá bằng cách sử dụng GRE thu được 24 giờ sau IAR. Đơn vị Hounsfield (HU) của siêu đặc được đo ở các vùng quan tâm được vẽ thủ công. Tổng cộng có 68 bệnh nhân được phân tích trong nghiên cứu này. Hai mươi chín bệnh nhân (42.6%) phát triển HT trên hình ảnh theo dõi. Ba mươi tám bệnh nhân có khu vực siêu đặc trên NCCT ngay sau IAR. Siêu đặc trên NCCT thực hiện ngay sau IAR tiết lộ 23 (60.5%) trong số 38 bệnh nhân với sáu vùng âm tính giả. NCCT thực hiện ngay sau IAR cho thấy độ nhạy 79.3%, độ đặc hiệu 61.5%, giá trị dự đoán dương tính 60.5% và giá trị dự đoán âm tính 80% cho HT. Giá trị HU là một yếu tố dự đoán của HT mà không có ý nghĩa thống kê (diện tích dưới đường cong là 0.629; CI 95%: 0.49–0.76; p = 0.068). Ngoài ra, một HU >90 dự đoán kém cho HT với độ nhạy thấp (23%) và độ đặc hiệu cao (94%). Kết luận, kết quả của chúng tôi cho thấy mặc dù siêu đặc trên hình ảnh NCCT thu được ngay sau IAR có giá trị dự đoán trung bình cho HT, vẫn có những hạn chế để dự đoán huyết khối mô sau đó và xuất huyết nội sọ có triệu chứng, với độ đặc hiệu và giá trị dự đoán dương tính thấp.
#NCCT #tái thông mạch qua động mạch #chảy máu #siêu đặc #giá trị chẩn đoán
Chảy máu muộn sau phẫu thuật gamma knife điều trị u màng não Dịch bởi AI
Acta Neurochirurgica - - 2004
Chúng tôi báo cáo về sự xuất hiện của chảy máu trong một khối u màng não sau khi thực hiện phẫu thuật gamma knife. Một người phụ nữ 52 tuổi đã trải qua phẫu thuật xạ trị gamma knife cho một khối u màng não đang phát triển tại vùng hẹp màng não bên trái ba năm trước (liều bức xạ 15 Gy được áp dụng cho viền, với liều tối đa 30 Gy, Hình 1a). Kích thước của khối u đã giảm dần đều, và có hiện tượng sáng vùng trung tâm được thấy trong hình ảnh cộng hưởng từ theo dõi, là một phát hiện thường thấy sau phẫu thuật gamma knife (MRI, Hình 1b). Tuy nhiên, một hình ảnh MRI được thực hiện sau 30 tháng theo dõi cho thấy khối u bị sưng lên, và phù nề quanh khối u đã gia tăng (Hình 1c). Ba năm sau, các triệu chứng xuất huyết xảy ra, và chụp cắt lớp vi tính cho thấy có chảy máu quanh khối u, kèm theo phù nề (Hình 1d). Một ca phẫu thuật sọ não khẩn cấp đã được thực hiện, và sinh thiết cho thấy một loại u màng não chuyển tiếp, có biến chứng mạch và hoại tử. Sau ca phẫu thuật, bệnh nhân gặp phải tình trạng liệt nửa người phải và khiếm khuyết thị giác.
#u màng não #phẫu thuật gamma knife #chảy máu #phù nề #sinh thiết #nhẹ nửa người phải
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ CHẢY MÁU SAU SINH BẰNG ĐẶT BÓNG CHÈN LÒNG TỬ CUNG TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN THÀNH PHỐ CẦN THƠ NĂM 2021-2022
Đặt vấn đề: Chảy máu sau sinh là một cấp cứu sản khoa gây tử vong hàng đầu ở phụ nữ mang thai. Phương pháp đặt bóng chèn lòng tử cung được nghiên cứu sử dụng trong chảy máu sau sinh do đờ tử cung và nhau bám thấp. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả điều trị chảy máu sau sinh với phương pháp đặt bóng chèn lòng tử cung bằng sonde Foley. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 30 sản phụ có chảy máu sau sinh do đờ tử cung tại Bệnh viện Phụ Sản thành phố Cần Thơ từ tháng 4/2021 đến tháng 3/2022. Các sản phụ được chỉ định đặt bóng chèn lòng tử cung sau xử trí thuốc co hồi tử cung và xoa đáy tử cung không đáp ứng. Kết quả: Tỷ lệ thành công trong xử trí chảy máu sau sinh của phương pháp bóng chèn Foley lòng tử cung là 93,33%. Lượng dịch bơm vào bóng chèn Foley trung bình: 160,5±38,5mL. Thời gian lưu bóng chèn Foley trung bình: 12,2±4,1 giờ (8-24 giờ). Kết luận: Phương pháp bóng chèn lòng tử cung trong điều trị chảy máu sau sinh do đờ tử cung có tỷ lệ thành công cao.
#Chảy máu sau sinh #bóng chèn lòng tử cung #đờ tử cung
Rò rỉ giả của động mạch hồi manh tràng sau phẫu thuật cắt ruột thừa nội soi do viêm ruột thừa cấp tính Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 8 - Trang 1-5 - 2022
Rò rỉ giả của các mạch máu tạng được coi là hiếm, và đặc biệt rất ít trường hợp rò rỉ giả ở động mạch hồi manh tràng được báo cáo. Tại đây, chúng tôi báo cáo một trường hợp rò rỉ giả của nhánh mạch máu cấp máu cho ruột thừa của động mạch hồi manh tràng sau khi đã tiến hành phẫu thuật cắt ruột thừa nội soi. Một nam giới 52 tuổi được chẩn đoán là viêm ruột thừa phlegmonous và phẫu thuật cắt ruột thừa nội soi khẩn cấp đã được thực hiện. Chảy máu từ dây chằng giữa hai ruột thừa trong quá trình tách rời các dính đã được ngừng lại bằng phương pháp đông tụ trắng và khâu Z, và dây chằng giữa hai ruột thừa đã được điều trị. Quá trình hậu phẫu diễn ra thuận lợi và không có sự kiện bất lợi hoặc phát hiện nào gợi ý sự hình thành áp xe. Vào ngày thứ 30 sau phẫu thuật, bệnh nhân đã trình diện với tình trạng rò rỉ giả của nhánh động mạch cấp máu cho ruột thừa của động mạch hồi manh tràng. Chẩn đoán xác định được thực hiện bằng phương pháp chụp cắt lớp vi tính, và kỹ thuật can thiệp mạch cấp cứu đã được thực hiện với đạt được cầm máu bằng phương pháp thắt coil. Quá trình hồi phục của bệnh nhân sau thủ tục là thuận lợi, và bệnh nhân được xuất viện mà không có sự kiện bất lợi nào, như thiếu máu cục bộ ruột. Chúng tôi đã gặp một trường hợp rò rỉ giả xảy ra muộn sau phẫu thuật cắt ruột thừa nội soi. Cần phải cẩn thận khi xử lý động mạch ruột thừa trong quá trình phẫu thuật, và khả năng hình thành rò rỉ giả nên được xem xét trong quá trình theo dõi sau phẫu thuật.
#rò rỉ giả #động mạch hồi manh tràng #cắt ruột thừa nội soi #viêm ruột thừa cấp tính #chảy máu
Tỷ lệ biến chứng chảy máu sau sinh thiết kim lõi qua da ở bệnh nhân tăng huyết áp và so sánh với bệnh nhân huyết áp bình thường Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 41 - Trang 637-642 - 2016
Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định tỷ lệ biến chứng chảy máu lớn sau sinh thiết các cơ quan rắn hoặc phổi ở bệnh nhân tăng huyết áp và so sánh với tỷ lệ chảy máu ở bệnh nhân huyết áp bình thường. Sau khi được hội đồng đạo đức phê duyệt, chúng tôi đã tiến hành đánh giá hồi cứu tất cả các sinh thiết cơ quan rắn và phổi được thực hiện tại cơ sở của chúng tôi từ ngày 1 tháng 6 năm 2013 đến ngày 31 tháng 10 năm 2015. Tăng huyết áp được định nghĩa là huyết áp tâm thu tối đa quan sát lớn hơn hoặc bằng 160 mmHg và/hoặc huyết áp tâm trương lớn hơn hoặc bằng 90 mmHg tại thời điểm thực hiện sinh thiết. Biến chứng chảy máu được định nghĩa theo các tiêu chí thuật ngữ chung về các sự kiện bất lợi (CTCAE, phiên bản 4.0) do Viện Ung thư Quốc gia thiết lập. Tất cả 4756 ca sinh thiết trên 3876 bệnh nhân độc nhất (tuổi trung bình 60, 57% nam) đã được đưa vào nghiên cứu. Trong số này, 1488 (31,3%) ca sinh thiết được thực hiện trên bệnh nhân tăng huyết áp. Đã ghi nhận 15 ca chảy máu lớn (CTCAE cấp 3 trở lên) xảy ra (0,32%). Không có ca tử vong nào. Không có mối liên quan đáng kể nào giữa tăng huyết áp và chảy máu lớn. Tỷ lệ chảy máu ở bệnh nhân tăng huyết áp là 0,40% (6/1488), không khác biệt về mặt thống kê so với tỷ lệ ở bệnh nhân huyết áp bình thường (9/3268, 0,28%, p = 0,496). Đối với nhóm sinh thiết mô thận gốc, tỷ lệ chảy máu cao hơn một chút ở bệnh nhân tăng huyết áp (3/213, 1,4% so với 1/355, 0,28% ở bệnh nhân huyết áp bình thường), nhưng vẫn ở mức thấp, và sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p = 0,188). Tỷ lệ chung biến chứng chảy máu lớn sau sinh thiết qua da là rất thấp. Tăng huyết áp dường như không làm tăng nguy cơ biến chứng chảy máu lớn một cách đáng kể.
#chảy máu #sinh thiết kim lõi #tăng huyết áp #bệnh nhân huyết áp bình thường #biến chứng
Tổng số: 14   
  • 1
  • 2